Danh tính của một bộ phim?
Một bộ phim cần phải được đặt vào bối cảnh văn hóa của chủ thể trong phim
Bài viết vào 8.4.2020, sửa đổi vào 2025
Gần đây vì dịch covid, tôi chuyển những buổi host phim thành những buổi xem trực tuyến. Có người sau buổi chiếu hỏi tôi có định chiếu phim Người vợ ba không. tôi trả lời là tôi không sẽ không chiếu phim đó, vì tôi không thích.
Không thích, ngoài cái chuyện sai sót văn hóa như rất nhiều người đã nói khi phim ra mắt, thì có một cảnh, ấy là cảnh Mây (người vợ ba) hôn Xuân (người vợ hai) và nói em yêu chị. Khó chịu khi thấy hai người hôn nhau, rồi lại phì cười khi Mây gượng gạo nói em yêu chị. Giống như là bí không biết viết tiếp ra sao, nên đưa ra một tình huống chưng hửng chẳng từ đâu tới cũng chẳng dẫn đến đâu.
Sau thì tôi có xem lại Người vợ ba dưới một góc nhìn khác. Ấy là thử đặt mình dưới góc nhìn không phải của một người Việt Nam. Sự khác biệt đến rõ nhất ở bốn cảnh: Cảnh thứ nhất, sau đêm tân hôn, Mây đứng trước sân, treo tấm lụa trắng dính máu lên cành liễu. Cảnh thứ hai, khi Mây có bầu, cả đại gia đình (trừ người đàn ông) ngồi trên bãi cỏ và ăn uống cùng nhau. Cảnh thứ ba, cảnh húp trứng trong đêm tân hôn. Cảnh thứ tư, sau cái chết của Nhàn, Mây ngồi cạnh bờ suối, nhìn lá ngón mọc trên bờ. Bốn cảnh này có ngữ cảnh (context) lần lượt như sau: Một - sự chứng minh trinh tiết/phẩm hạnh. Hai - sự tham gia của Mây vào sinh hoạt chung của gia đình, sự chấp thuận và kết nối. Ba - tiếp nhận tinh lực, truyền đi mầm sống. Bốn - nghĩ về cái chết. Bốn cảnh này nói riêng và những cảnh phim khác nói chung (trừ cảnh hôn được nêu ở trên) đều thể hiện một cách chọn lựa hình ảnh độc đáo và một khả năng kiểm soát nhịp độ lẫn thông tin truyền tải rất vừa vặn đến từ kỹ năng của người làm phim. Riêng cảnh hôn, tôi cho rằng liên quan nhiều tới cá nhân người làm phim hơn là mang chức năng dẫn truyện.
Bốn cảnh này sẽ được hiểu thuần túy như trên nếu bỏ qua các gắn kết với Việt Nam hoặc không nhìn qua con mắt người biết về truyền thống Việt. Nhưng đặt vào trong ngữ cảnh không gian sống Bắc Bộ thế kỷ 19, nó lại khác đi. Cảnh đầu mang thêm ý nghĩa cái chết với mảnh lụa trắng và cành liễu. Cảnh hai không phải là một không gian kết nối gia đình do xảy ra trong khu rừng, vả lại dàn cảnh cũng giống một bức tranh phương Tây (ảnh dưới). Cảnh ba thì khó có thể nói là truyền tải thông điệp "làng quê Bắc Bộ" vì nhiều khả năng phong tục đó chỉ xuất hiện trong gia đình này. Cảnh thứ 4 lại càng xa rời Bắc Bộ với hình ảnh lá ngón. Từ đó, ý nghĩa chung của bộ phim dần trở nên chuệch choạc.
Khoảng cách này đã thể hiện cái nhìn của nhà làm phim, định ra danh tính bộ phim và cuối cùng là xác định đối tượng. Đối tượng ở đây không phải là người hiểu về văn hóa Việt Nam, mà là những người phương Tây. Bộ phim không phải phim về Việt Nam thế kỷ 19, mà là một Việt Nam thế kỷ 19 trong tưởng tượng, được chỉnh lý để phục vụ cho mục đích kể truyện, dưới con mắt của một người kể chuyện tốt nhưng xa rời văn hóa. Hơi ngứa mồm nên phải nói thêm, phim mang chất hậu thuộc địa nặng: nó giống viên ngọc được làm giả, đánh cho bóng trước khi cho kẻ thực dân xem, dù viên ngọc trông có hơi giả, để những kẻ đó khen ngợi về tính phương Đông ẩn trong một viên ngọc.
Tôi luôn nghĩ cảnh húp trứng và hình ảnh những con tằm sau đó là một tưởng tượng thú vị. Nó có những yếu tố của một ẩn dụ điện ảnh hay: trước nhất gợi lên cảm xúc, sau tiếp gợi lên diễn giải, nhưng không tự đóng khung tôi, thậm chí đổ vỡ trước nỗ lực diễn giải (như nỗ lực diễn giải của tôi ở trên). Đó là cảm giác ngọ nguậy nhung nhúc trong lần đầu, hay là tự khởi đầu của số kiếp nhả tơ rồi chết?
Bởi đã định danh như thế, nên nó sẽ chỉ có thể được hiểu một cách gần với ý đồ nhất khi cho người phương Tây xem, và sẽ bị chê bai bởi sự sai lệch văn hóa Việt Nam. Tôi ghét nó dưới tư cách là một người xem Việt Nam, còn dưới góc độ kỹ thuật làm phim, Người vợ ba là một phim đáng để học hỏi.