Tôi luôn cảm thấy xa cách với những cận cảnh. Tôi cảm thấy không tự nhiên với những cảnh ở gần - nó không giống trải nghiệm nhìn của chúng ta hàng ngày. Trong những phim và music video tôi làm, tỉ lệ cận cảnh (tính các cận cảnh từ vai đổ lên) rơi vào dưới 15%. Tôi không thấy cần nhiều hơn, nên không quay. Nó quá hẹp để có thể làm một cú máy dài vài phút, và hoặc là người diễn viên ngồi yên một chỗ, hoặc là người quay phim phải tính toán một chuyển động máy phức tạp hơn để đảm bảo rằng không máy móc làm một cú chuyển động máy theo nhân vật.
Nó không cần thiết với tôi về mặt cảm xúc lẫn mặt thực thi.
Mối quan hệ của tôi với các cận cảnh có khi sẽ bớt độc hại hơn nếu từ những ngày đầu đi học phim tôi không phải nghe những lời nói về cảnh cận giống như nó là một thứ kỳ diệu thần thánh. Tôi từng thấy những người quay cảnh cận và đòi hỏi diễn viên phải diễn ra sự đau khổ xen lẫn hi vọng, nỗi buồn xen lẫn tin tưởng vào tương lai.
Tôi tự hỏi họ đã bao giờ trải qua những cảm xúc đó, chứ chưa nói đến việc nhìn chính mình khi trải qua cảm xúc đó.
Khi ta mới làm phim, khi ta không biết phải quay gì (hoặc tưởng mình biết thế nào là quay phim), thì ngữ pháp thông dụng nhất lên tiếng - ngữ pháp toàn trung cận của Hollywood, gắn liền với phong cách viết kịch bản nhiều thoại. Đầu tiên, ta bổ một cảnh toàn. Giới thiệu không gian, giới thiệu toàn bộ nhân vật. Rồi vào trung cảnh. Ai đang nói, họ ở đâu trong không gian, họ có di chuyển hay không. Rồi căng thăng trong cảnh tăng lên. Đã đến lúc vào cận rồi. Đến lúc để nhìn thấy người diễn viên đang trưng ra những sợ hãi, những hạnh phúc, những niềm vui, những nỗi bất hạnh trên mặt mình. Và ngữ pháp toàn trung cận ấy đã xác lập cách chúng ta nghĩ về hình ảnh. Chúng ta dễ sợ hãi, đôi lúc khó chịu bực dọc, coi rằng bộ phim khó hiểu, khó tiếp cận, khi không được nhìn những cận cảnh.
Những cảnh cận của tôi xảy đến, đều là những cảnh máy tĩnh hoặc là kết quả của những cú máy dài mà khi diễn viên di chuyển so với máy quay thì cỡ cảnh thay đổi và đôi lúc dừng ở cận cảnh. Và tôi luôn ghét việc diễn viên sẽ biểu cảm một điều gì đó ở cảnh cận. Thậm chí có một thời gian tôi đã nghi ngờ rằng liệu tôi có đang cản trở sự biểu cảm của diễn viên hay không? Ranh giới giữa sự chân thật cảm xúc và sự thừa thãi cảm xúc rất mong manh. Tôi chỉ biết là mình muốn chống đối lại tư duy làm phim vào cận để ghi biểu cảm và vào cận thì phải biểu cảm.
Đây là một ví dụ về việc tôi không quay cảnh cận vì không cảm thấy sự cần thiết của nó, cũng như không yêu cầu một biểu cảm cụ thể khi vào cận. Điện ảnh là trò chơi của những cú cắt, không phải diễn xuất. Tôi tin rằng khán giả đều sẽ cảm nhận được những gì bên trong hai người này và kết cục của họ, mà không cần một lời nói, không cần nhiều cảnh cận hơn và nhiều biểu cảm hơn. Hay như Bresson đã nói, cảm xúc của nhân vật nằm trong đầu khán giả, không phải trên mặt diễn viên. Để tạo ra cảm xúc, cần phải hạn chế cảm xúc.
Đòi một cận cảnh phải đong đầy được thật nhiều cảm xúc khác nhau giống như đòi người diễn viên phải làm thay phần việc kể chuyện của người đạo diễn, bởi nếu các tình huống/sự kiện trước đó đủ cho người xem biết rằng nhân vật có cảm xúc gì, thì một khuôn mặt trống rỗng nhất, trung tính nhất cũng có thể trở thành khuôn mặt giàu cảm xúc nhất. Và nó cũng thật mâu thuẫn: người ta vừa đòi người diễn viên phải chân thật, vừa đòi người diễn viên phải biểu cảm thật nhiều. Ở vế đầu tiên, người ta yêu cầu diễn viên phải vẫn là một con người đáng tin. Người ta yêu cầu người diễn viên phải hiện hữu trong từng khoảnh khắc, phải sống trong cảnh. Tôi cho rằng điều này không hề vô lý nếu không muốn nói là yêu cầu chính đáng và quan trọng nhất đối với người diễn viên. Nhưng vế thứ hai, họ đã đòi diễn viên phải là một chiếc máy bán cảm xúc. Ấn nút, và chiếc máy sẽ cho ra cảm xúc cụ thể, chính xác và gọn ghẽ. Đúng thời điểm và đúng cảm xúc. Nhưng hành vi tự nhiên của con người đôi khi là giấu đi cảm xúc - một người đang trong trạng thái muốn khóc thì không phải lúc nào cũng khóc, họ cũng có thể cố không khóc.
Chẳng có diễn viên nào có thể chân thật được nếu không được tạo không gian để họ có thể làm những hành động diễn và nói những câu thoại một cách chân thật, không ép buộc. Đó hiển nhiên là công việc của người đạo diễn: anh phải tìm cách để diễn viên có thể nói những câu trong kịch bản và hành động theo như kịch bản đã viết một cách hợp lý, và điều ấy đi kèm với việc sẵn sàng để vứt kịch bản đi nếu nó không phục vụ cho sự chân thật của cảnh. Phải tìm cách để sức sống nảy sinh trong người diễn viên khi họ bước vào cảnh, và duy trì nó đến khi hô cắt. Tất nhiên, việc đó khó hơn việc bảo diễn viên phải “biểu cảm lên”, “cảm xúc lên”.
Tôi bắt đầu có lại tình yêu với cảnh cận, khi đi hướng dẫn lớp diễn xuất. Các em nhìn nhau trong những cảnh diễn có thể kéo dài đến 10 phút, và tôi ở ngoài nhìn vào, ở một cỡ rộng. Một cảnh rộng là đủ để thấy hết, và quay cận làm gì, cắt làm gì để làm hỏng mất nhịp độ thật của người diễn viên? Nhưng sau cùng, trong những khoảng lặng, cận cảnh vẫn là đặc quyền của điện ảnh. Tôi đi gần vào để nhìn các diễn viên, và cỡ cảnh của mắt tôi thay đổi. Các tiểu tiết hiện lên. Cảnh cận không chỉ là khuôn mặt. Nó là bàn tay, bàn chân, vai, cánh tay, những ngón tay, những đồ vật trên bàn, trên ghế, trên người họ. Nó là những nhịp rất bé, phụ trợ cho những nhịp lớn của người diễn viên. Cận cảnh thật diệu kỳ làm sao. Bằng chiếc máy quay, ta bắt được những nhịp quan trọng dù rất bé của đời sống, và cho nó một sức nặng đúng tầm của nó.
Câu hỏi không phải là vào cận hay không. Hiển nhiên là chẳng ai hoàn toàn chối từ một cận cảnh. Nó cho chúng ta cơ hội được nhìn nhân vật ở một khoảng cách chúng ta chỉ có được khi tập trung. Nhưng vì có chiếc máy quay, cơ hội mong manh hiếm hoi đó lại trở thành một thứ dễ dàng đến mức không còn được tôn trọng. Bạn - người xem, người làm phim - được nhìn người diễn viên - nhân vật ở gần, ở khoảng cách thân mật. Bạn không hề nỗ lực cho cơ hội lại gần những người đó, một thứ nỗ lực mà bạn phải bỏ ra nếu phim không vào cận. Bạn được trao quyền nhìn ngắm họ ở khoảng cách gần - đó là một thứ quyền lực đến mức trịch thượng. Và ở tâm thế đó, vị trí đó, mong chờ một biểu cảm thật rõ ràng.
Nhưng cận cảnh không nên là thứ chúng ta quay khi chúng ta chờ mong hay bắt buộc một cảm xúc hiện hình. Cận cảnh là nơi ta được nhìn ngắm, dù ngắn ngủi, sự hiện hữu của người khác, ở một khoảng cách thân mật. Trong thoáng chốc, ta được nhìn ngắm không phải cảm xúc mà một điều gì đó mơ hồ trên khuôn mặt họ - cũng có thể là bản thân sự tồn tại, bản thân sự sống - trong khi biết rằng tất cả những điều ấy sắp biến mất đi rồi.