Bài viết vào 17.11.2023, không sửa đổi khi đăng lại.
Hoạt động đánh giá phim Việt Nam hiện nay thường xảy ra với tư duy coi rằng một bộ phim là một thứ riêng biệt, một thứ thuần nhất đến từ sự sáng tạo của những người tham gia vào quá trình làm phim (đạo diễn, biên kịch, diễn viên, quay phim...) mà xem nhẹ sự chi phối của các yếu tố thời đại ảnh hưởng lên những người làm phim, hay rộng hơn là nghiên cứu bộ phim đó như là một phần chiều dài lịch sử phát triển của ngành điện ảnh tại Việt Nam.
Trước nhất phải nói rõ rằng đặt phim vào một dòng chảy lịch sử điện ảnh không phải là so sánh một phim ở hiện tại và một phim ở quá khứ (có cùng văn bản - context - gốc) hay dở thế nào, mà là sự đặt câu hỏi về việc điều gì đã xảy ra để có thể dẫn đến những điều mà chúng ta thấy trong phim, và thậm chí phải đặt cả câu hỏi rằng việc chúng ta nhận xét về phim sau khi xem nó là để làm gì? Vì việc xét đoán hay dở lúc này không quá cần thiết nếu người ta thực sự muốn phản biện phim và đặt câu hỏi cho nó (với mong muốn thúc đẩy ngành điện ảnh nói chung). Còn nếu lập luận rằng vì họ là người trả tiền, họ có quyền nhận xét về nó, thì đó là tư duy coi phim như một sản phẩm tiêu thụ chứ không hơn, coi việc đi xem phim giống như đi ăn món ăn ở nhà hàng, bạn không thích thì bạn chê dở, và những sự khen ngợi thì đều là mua bài, là bán mình cho bọn tư bản sản xuất phim, thì có lẽ cuộc tranh cãi sẽ không đem đến một sự phát triển hơn mà chỉ là mong muốn được xả ra sự tức giận với bộ phim, vì bộ phim không hoạt động theo cách người trả tiền muốn: họ muốn phim phải thế này thế kia, phải như ý tôi, diễn phải thế này, quay phải thế này,.... vì tôi trả tiền nên nó phải như thế, còn nó không như thế thì là nó dở.
Tuần này tôi đang đi xem liên hoan phim Việt Nam. Có phim của bác Đặng Nhật Minh. Có phim nhà nước đặt hàng. Có phim của sinh viên SKĐA làm cùng nhau gộp lại chiếu rạp. Phim đặt hàng cho thấy một sự tiến bộ trong việc thiết kế bối cảnh và trang phục ở bối cảnh lịch sử thời Trịnh - Nguyễn: người ta không chỉ có nhiều tiền hơn, người ta đã không còn tư duy nó như một vở kịch với các phông nền phẳng, hay việc minh họa ước lệ các chi tiết. Xem 3 phim khác hẳn nhau như vậy là một đối sánh hay - nó cho thấy sự chuyển dịch và xu thế điện ảnh dù ở quy mô nhỏ. Khi đi ra ngoài rạp, tôi nghĩ đến việc những người làm phim nhà nước đặt hàng là ai? Tại sao họ được làm? Trong một hệ thống state funding, vốn xã hội (social capital) và vốn chính trị (political capital) cũng là yếu tố quyết định việc làm phim. Người cấp tiền cần có sự cẩn trọng về tư tưởng, cũng như một sự quen biết đủ lâu với những người sau này có thể nắm vai trò sáng tạo chính khi được cấp tiền.
Còn về tầm nhìn (vision) và kỹ thuật kể chuyện (storytelling technique) của người làm thì sao? Các vấn đề của điện ảnh không lộ diện ngay thời điểm nó bắt đầu có, mà thường phải mất 20 30 năm. Việc xem một phim ở năm 2023 không chỉ là nhìn thấy vấn đề của nền điện ảnh vào năm 2023, mà là nhìn thấy vấn đề của điện ảnh cách đây 20 30 năm, những năm 1990 - 2000, và kéo dài đến bây giờ, nhưng người xem phổ thông thường sẽ bỏ qua bởi họ chỉ nhìn nó theo ngày hôm nay thôi. Những năm 90 - 2000 đánh dấu sự suy giảm trong đầu tư điện ảnh và sự chuyển dịch sang sản xuất truyền hình, do ảnh hưởng của vấn đề kinh tế chính trị nội địa và thế giới (sự sụp đổ của Liên Xô), sự mất đi mục tiêu chính trị (giống như điện ảnh cách mạng). Đầu vào giảm và đầu ra cũng trở nên hạn chế, bởi sự ra đời của đài truyền hình Việt Nam, TV bãi Nhật nhập khẩu qua cảng Hải Phòng. Bên cạnh đó cũng là sự thiếu trải nghiệm bởi các mối lo chính trị thường trực liên quan tới các đoàn làm phim Mỹ có mong muốn làm phim ở Việt Nam vào những năm 2000, đã biến những người làm phim trẻ tuổi sinh vào giai đoạn 65-80 (mà ra trường vào những năm 90 - 2005) trở thành những người bị tụt lại. Họ là một thế hệ đen đủi (ở cả miền bắc lẫn miền nam), không được đào tạo chuẩn mực như những nhà làm phim cách mạng, bởi VGIK lúc này đã thành cái bóng của chính nó. Họ thiếu cơ hội làm phim, và thiếu cả phim để xem (mà ở thế hệ 9x chúng tôi, điều đó đến từ băng đĩa lậu, đến từ public và private torrent, đến từ sự phổ cập internet mạnh mẽ). Họ phải chạy đua cơm áo gạo tiền trong một đất nước chưa no đủ, tích cóp tiền sản xuất những bộ phim phim quay bằng những cuộn phim cũ mà iso tậm tịt tầm 25-50, rồi cũng chỉ có được 30 phút phim để quay. Đó là còn chưa kể đến yêu cầu khách quan cho sự thay đổi của lối diễn xuất Stanislavsky cổ điển, mà không thể tiếp cận được với những phương pháp mới hơn. Và rồi điện ảnh quốc tế tràn vào - đó là phim từ những quốc gia mà điện ảnh được đầu tư nhiều hơn, lâu hơn, trải qua nhiều cuộc cách mạng trong ngành hơn và có bề dày tư tưởng triết học cùng với khoa học kỹ thuật đi cùng. Lúc này việc đặt so sánh khi xem phim càng khiến phim Việt lép vế.
Tất cả những điều trên đã xảy ra, và tôi nghĩ rằng chỉ riêng việc họ vật lộn được với chúng để làm phim đến giờ cũng là điều đáng quý. Họ có thể không phải những người xuất sắc nhất, không phải những người làm ra phim hay nhất, nhưng họ sẽ là nền tảng cho điện ảnh Việt Nam 20 năm tới, khi những đạo diễn hiện nay - người thì được đi học nước ngoài, người thì có internet để tự học, để tải sách lậu phim lậu, có xuất phát điểm tài chính gia đình vững mạnh hơn những người sinh ra trong thời trước đổi mới - trở thành những người thống lĩnh phòng vé và đưa nền điện ảnh này đi xa hơn. Và nếu khi ấy họ vẫn làm phim như hiện nay, có lẽ đó mới là điều đáng buồn.
Ai chẳng muốn nền điện ảnh này phát triển, ai chẳng muốn được xem phim hay? Nhưng bước tiến của nền điện ảnh đến từ các yếu tố chi phối vĩ mô hơn (và thường là vô hình ở thời điểm nó đang diễn ra, và kể cả có nhìn thấy thì các cá nhân cũng rất khó thay đổi nó), rối cuối cùng mới đến sự vận động cựa quậy của những người làm phim trong bối cảnh xã hội như vậy, và sự phản biện của người xem. Nếu có gì thay đổi được chủ động, tôi nghĩ là thay đổi cách chúng ta phản biện phim. Phản biện, và đặt câu hỏi, chứ không phải là đòi phim phải như tôi nghĩ vì tôi trả tiền cho nó.



