Nhà làm phim cũng là một con người như bao người khác; nhưng cuộc đời của họ không giống nhau. Việc nhìn thấy đối với chúng ta là một điều cần thiết. Đối với một họa sĩ, vấn đề cũng nằm ở việc nhìn thấy: nhưng đối với họa sĩ đó là việc khám phá một thực tại tĩnh, hay cùng lắm là một nhịp điệu có thể được giữ trong một hình ảnh duy nhất, thì đối với một đạo diễn vấn đề là nắm bắt một thực tại không bao giờ tĩnh tại, luôn hướng tới hoặc rời xa một khoảnh khắc đóng băng, và thể hiện chuyển động này, sự đến và đi này, như một nhận thức mới. Nó không phải âm thanh - từ ngữ, tiếng động, âm nhạc. Nó cũng không phải hình ảnh - phong cảnh, thái độ, cử chỉ. Đúng hơn nó là một toàn thể không thể chia cắt, trải dài trong một khoảng thời gian mà nó chỉ tồn tại trong đó. Tại thời điểm này, chiều kích thời gian bắt đầu phát huy tác dụng, theo quan niệm hiện đại nhất của nó. Chính trong trật tự trực giác này, điện ảnh có thể có được một tính cách mới, không còn chỉ đơn thuần là tượng trưng. Những người xung quanh ta, những nơi ta đến, những sự kiện ta chứng kiến - chính những mối quan hệ không gian và thời gian mà chúng có với nhau mới có ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay, và sự căng thẳng hình thành giữa chúng.
Tôi nghĩ đây là một cách đặc biệt để tiếp xúc với thực tại. Và đó cũng là một thực tại đặc biệt. Mất đi kết nối này, theo nghĩa là mất đi CÁCH THỨC kết nối này, đồng nghĩa với việc chẳng còn gì có thể sinh ra nữa. Lý do mà nó quan trọng với một đạo diễn chứ không chỉ đối với các nghệ sĩ khác, chính bởi sự phức tạp của chất liệu mà anh ta có trong tay, và phải cam kết về mặt đạo đức theo một cách nào đó. Sẽ là thừa thãi khi chỉ ra rằng nỗ lực của đạo diễn phải là hòa hợp giữa việc đưa ra thông tin về trải nghiệm cá nhân với những trải nghiệm rộng lớn hơn, giống như cách mà thời gian cá nhân hòa hợp một cách bí ẩn với thời gian của vũ trụ. Nhưng nỗ lực này cũng sẽ chẳng đi tới đâu nếu chúng ta không thành công trong việc đưa ra, bằng cách này, một lời biện minh chân thành cho những lựa chọn mà cuộc sống đã buộc chúng ta phải đưa ra.
Bầu trời trắng xóa; bờ biển hoang vắng, biển lạnh lẽo và trống rỗng; các khách sạn trắng toát và đóng cửa hờ hững. Trên một trong những chiếc ghế trắng của Promenade des Anglais, người phục vụ tắm đang ngồi, một [người đàn ông da đen] mặc một chiếc áo ba lỗ trắng. Trời còn sớm. Mặt trời đang cố gắng ló dạng sau lớp sương mỏng như mọi ngày. Không có ai trên bãi biển ngoại trừ một người tắm đơn độc đang trôi nổi bất động cách bờ vài mét. Không có gì để nghe thấy ngoài tiếng sóng biển, không có gì để quan sát ngoài sự lắc lư của cơ thể đó. Người phục vụ đi xuống bãi biển và vào khu vực tắm. Một bé gái bước ra và đi về phía biển. Cô bé mặc một bộ đồ màu da người.
Tiếng kêu ngắn ngủi, sắc nhọn và chói tai. Chỉ cần liếc nhìn cũng đủ biết người đang tắm đã chết. Khuôn mặt tái nhợt, miệng đầy nước bọt, hàm cứng đờ như đang cắn, vài sợi tóc dính chặt vào trán, đôi mắt nhìn chằm chằm, không phải với vẻ bất động của cái chết mà là với một ký ức đau buồn về cuộc sống. Thi thể nằm dài trên cát, bụng ngửa lên trời, hai chân dang rộng và hướng ra ngoài. Chỉ vài phút sau, trong khi người phục vụ cố gắng hô hấp nhân tạo, bãi biển đã đầy người.
Một cậu bé khoảng mười tuổi, đẩy một bé gái khoảng tám tuổi chen lên phía trước để nhìn. "Nhìn này," cậu bé nói với cô bé, "em có thấy không?" "Có," cô bé nói rất nhỏ. "Em có thấy nước bọt trên miệng ông ấy không?" "Có." "Còn cái bụng trướng to đùng kia thì sao? Thấy chưa? Nó đầy nước." Cô bé im lặng nhìn như bị mê hoặc. Cậu bé tiếp tục, với một niềm vui thích tàn bạo. "Giờ ông ấy vẫn trắng bệch, nhưng vài phút nữa ông ấy sẽ chuyển sang màu xanh. Nhìn dưới mắt ông ta kìa; nhìn kìa, nó bắt đầu rồi." Cô bé gật đầu đồng ý, nhưng vẫn im lặng: khuôn mặt cô bé cho thấy rõ ràng là cô bé bắt đầu thấy buồn nôn. Cậu bé nhận ra điều này và trông có vẻ hả hê. "Em sợ à?" "Không," cô bé đáp bằng giọng yếu ớt. "Có chứ," cậu bé khăng khăng, và tiếp tục gần như lẩm bẩm, "Em có sợ - có sợ-" Khoảng mười phút sau, cảnh sát đến, và bãi biển đã được dọn sạch. Người phục vụ là người duy nhất ở lại với viên cảnh sát. Rồi anh ta cũng đi, một người phụ nữ tóc tím gọi anh ta để học bài thể dục dụng cụ thường lệ.
Lúc đó là thời chiến. Tôi đang ở Nice, chờ thị thực sang Paris để làm trợ lý cho Marcel Carné. Đó là những ngày tháng đầy ắp sự sốt ruột và buồn chán, cùng với những tin tức về một cuộc chiến tranh đang dậm chân tại chỗ tại một thứ phi lý mang tên Đường Maginot. Giả sử người ta phải dựng một đoạn phim ngắn, dựa trên sự kiện này và trạng thái tinh thần của nó. Trước tiên, tôi sẽ cố gắng loại bỏ sự kiện thực tế khỏi bối cảnh, và chỉ giữ lại hình ảnh được mô tả trong bốn dòng đầu tiên. Trong khung cảnh bờ biển trắng xóa ấy, hình bóng cô đơn ấy, sự im lặng ấy, đối với tôi dường như có một sức mạnh tác động phi thường. Sự kiện ở đây chẳng thêm thắt được gì: nó là thừa thãi. Tôi nhớ rất rõ rằng tôi đã quan tâm khi nó xảy ra. Người chết chỉ là một sự đánh lạc hướng khỏi trạng thái căng thẳng. Nhưng sự trống rỗng thực sự, sự khó chịu, sự lo lắng, sự buồn nôn, sự teo tóp của mọi cảm xúc và ham muốn bình thường, nỗi sợ hãi, sự giận dữ - tất cả những điều tôi cảm thấy khi bước ra khỏi Khách sạn Negresco, và tôi thấy mình giữa sự trắng xóa, giữa hư vô, tất cả vây xung quanh một điểm đen ngòm.
Michelangelo Antonioni, "Sự thật và hình ảnh," trích từ Cinema nuovo #164, tháng 7 năm 1963. Bản dịch gốc trong Sight & Sound 33 (I), Mùa đông năm 1963-64
Discussion about this post
No posts



